Cổ Nhac Nam Bộ - Trang Web cổ nhạc & Lưu trữ các tài liệu về Cổ nhạc của Nam Bộ & Các video ca cổ, Tuồng cải lương xưa, thông tin về nghệ sĩ, Chủ Nhật, ngày 16 tháng 10 năm 2022 - 20:12 20-Oct-2019. Ba Nha Ngo Tu Ky - Cd Ca Co, Cai Luong - Ut Tra On, Ut Bach Lan, Bach Tuyet, Ngoc Giau.mp3 131785. Cai Luong Mo Dieu - Thanh Nga, Thanh Sang Su Hoa Dieu Ky Dieu Cua Hai Nghe Si.mp3 30034. Cai Luong Mot Kiep Doan Truong, Hung Cuong, Thanh Nga, Tan Tai.mp3 94468. Tải bài hát Nonstop - Tuyển Tập Nhạc Dance - DJ miễn phí về máy hay nhất. Nghe và tải nhạc Nonstop - Tuyển Tập Nhạc Dance mp3 online, download mp3 với các ca khúc hot mới nhất, tải nhạc về điện thoại, thẻ nhớ, usb chất lượng cao. Net, nghe nhac truc tuyen mien phi ~ nghe nhac, nghenhac. Website nghe nhạc, giải trí hàng đầu tại việt nam >> vào trang chính. Nghe nhac truc tuyen mien phi ~ nghe nhac, nghenhac, nghe nhạc. Chào mừng bạn đến với website tuổi g. Vn, Âm nhạc 24h, nghe nhac truc. Com - nghe nhac mien phi, download nhac chat luong Tủ nhạc Cổ Nhạc miền Nam. Tên bài. Nghệ sĩ trình diễn. Album. Chú thích. Ái Tử Kê. Ba Tu: đờn kìm, Út Tị: đờn cò, Lê Thanh: đờn tỳ bà, Quang Dũng: đờn bầu, tiêu, Duy Kim: đờn tranh. Hòa tấu Tám Bài Ngự. Sở VH-TT & DL Long An phát hành năm 1998. Vay Tiền Nhanh. Informações Song Lam Nghe An Identifícate para acceder NomeEl nombre de usuario solo puede contener letras, números y barras bajas. ContraseñaContraseña no válida Iniciar Sesión ¿Has olvidado la contraseña? Al registrarte aceptas nuestros términos y condiciones de uso y política de privacidad ¿No tienes cuenta? Regístrate. UsuarioEl nombre de usuario solo puede contener letras, números y barras bajas. Correo Electrónico Confirmar correo ElectrónicoLas direcciones de correo no son iguales Contraseña Repetir contraseñaContraseña no válida Reconozco ser mayor de 14 años Al registrarse acepta nuestros términos y condiciones de uso y política de privacidad ¿Ya tienes una cuenta? Inicia sesión. ¡Felicidades!El registro se ha completado con éxito. Es necesario estar identificado para marcar como favorito Crea una nueva cuenta si aún no tienes Inicia Sesión Regístrate Fechar Y en su próximo encuentro Mais Liga do Vietname. Ronda 12 Song Lam Nghe An 1100 Binh Dinh 25 Jun 2023 Última partida Mais Fim Vietnam League. Ronda 11 Song Lam Nghe An 2-1 Ho Chí Minh 06 JUN 2023 Sequência das últimas partidas 2 - 1 06 Jun. 3 - 0 01 Jun. 2 - 1 26 Maio. 2 - 2 20 Maio. 3 - 1 15 Abr. Chegadas Baixas V. Gašpuitis DEF Song Lam Nghe An assinatura V. Gašpuitis de FA Siauliai numa livre transferência J. Soladio ATA Song Lam Nghe An assinatura J. Soladio de FK Liepāja numa livre transferência Mario Arqués MEI PBS Kelantan assinatura Mario Arqués de Song Lam Nghe An numa livre transferência ver vídeo Song Lam Nghe An SON Geral País Vietnam Liga V-League Temporadas em liga 24 Competições Mais Liga do Vietname Taça do Vietname Dados técnicos Cidade Vinh Data de fundação 1979 Estádio Sân vận động Vinh Jogadores em destaque Mais Partidas 11 Gols - 3DEF Que Ngoc Hai Minutos 990 62 Elo ▲ 2 98ATA J. Soladio 60 ▲ 2 19ATA G. Oseni 58 ▲ 2 33DEF V. Gašpuitis 58 ▲ 2 7MED Phạm Xuân Mạnh 56 ▲ 4 Rendimento na liga Mais Rodada PTS PJ JG E D GP GC SG 8 Nam Dinh 15 11 3 6 2 9 11 -2 9 Hoang Anh Gia Lai 13 11 2 7 2 14 14 0 10 Song Lam Nghe An 12 11 2 6 3 13 15 -2 11 Sanna Khanh Hoa 12 11 2 6 3 10 12 -2 12 Binh Duong 7 11 0 7 4 10 16 -6 1º 4º 7º 10º 14º Séries Finais Play-off do rebaixamento Probabilidades de clasificación Séries Finais 15% Play-off do rebaixamento 85% Season 2022/23 Partidas oficiais 12 Partidas jogadas 15 Goles/Partido 1 Gols de pênalti 15 Gols sofridos 12 / 0 1 Tarjetas / partido Últimas temporadas Mais Temporadas PJ PTOS. POS. 2021/22 24 Liga do Vietname 24 33 2020/21 12 Liga do Vietname 12 10 2019/20 18 Liga do Vietname 18 23 2018/19 26 Liga do Vietname 26 35 2017/18 33 Liga do Vietname 26 42 1 Taça AFC 6 10 1 Supertaça do Vietname 1 1 Conquistas Mais 2 Liga do Vietname 1 Taça do Vietname 1 Supertaça do Vietname Estádio Estadio Vinh Capacidade 22000 Encuéntralo en... Página Web Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Hồi xưa trong Nam, lúc " Ba ngày Tết ", thì tối lại thường thường dân ở làng hay đi xem một " chầu " Hát Bội, còn dân ở tỉnh thì hay đi xem một " xuất " Cải Lương. Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn tuồng Hát Bội thì khán thính giả phải biết cốt chuyện của tuồng hát thường thường lấy trong truyện Tàu như tuồng " Kim Thạch Kỳ Duyên ", tuồng " Ngũ Hổ Bình Tây ", tuồng " San Hậu " và phải biết sơ sơ những nguyên tắc căn bản của... Chủ đề bài giảng âm nhạcdạy âm nhạcphương pháp dạy nhạcvăn hóa âm nhạckiến thức âm nhạc Nội dung Text THƯỞNG THỨC CỔ NHẠC MIỀN NAM VÀ VỌNG CỔ THƯỞNG THỨC CỔ NHẠC MIỀN NAM VÀ VỌNG CỔ Nguyễn Lưu Viên Hồi xưa trong Nam, lúc " Ba ngày Tết ", thì tối lại thường thường dân ở làng hay đi xem một " chầu " Hát Bội, còn dân ở tỉnh thì hay đi xem một " xuất " Cải Lương. Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn tuồng Hát Bội thì khán thính giả phải biết cốt chuyện của tuồng hát thường thường lấy trong truyện Tàu như tuồng " Kim Thạch Kỳ Duyên ", tuồng " Ngũ Hổ Bình Tây ", tuồng " San Hậu " và phải biết sơ sơ những nguyên tắc căn bản của việc đánh trống chầu. Giáo sư Nguyễn Ngọc An trong bài " Nghệ Thuật cầm chầu " đã trình bày hết sức rõ rệt nghệ thuật ấy. Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn xuất cải lương thì khán thính giả cũng phải biết cốt chuyện của tuồng hát thường thường lấy trong truyện Tàu hay trong tiểu thuyết Việt Nam như tuồng " Phụng Nghi Đình " với cô Bảy Phùng Há, tuồng " Xử Án Bàng Quý Phi " với cô Năm Phỉ, tuồng " Lan và Điệp " với cô Thanh Nga, và phải biết sơ sơ những nguyên tắc căn bản của cổ nhạc Việt Nam. Theo gương của giáo sư Nguyễn Ngọc An, tôi xin cố gắng trình bày sau đây vài nguyên tắc căn bản ấy. Vì thế hệ trẻ Việt Nam sau này đã quen với nhạc Tây Phương, nên tôi xin trình bày những nguyên tắc căn bản ấy dưới hình thức so sánh, bằng những khác biệt, giữa nhạc Tây phương và nhạc Cổ điển miền Nam để cho được dễ hiểu hơn. I . Khác biệt về các Note đàn Nhạc Tây phương có bảy 7 nốt đàn là Do, Ré, Mi, Fa, Sol, La, Si hoặc A, B, C, D, E, F, G và các dièse sharp hoặc bémol flat của mỗi nốt ấy. Còn cổ nhạc miền Nam thì cũng có bảy 7 tên nốt đàn là Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Liếu, Ú nhưng kỳ thực thì chỉ có năm 5 tiếng nốt đàn là Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, còn Liêu, Ú, là " nấc trên " của Hò và Xự. Nhưng mỗi nốt đàn Việt Nam không có dièse hay bémol của nó mà có vô số tiếng " ngân " éo on của nó, vì nốt đàn Việt Nam đánh lên thường thường là có " ngân " nhất là khi nốt đàn ở vào cuối nhịp hay cuối câu. " Ngân " không phải là trille vì trille là đánh thật nhiều lần rất mau và đàn và nốt liền ở trên. " Ngân " cũng không hẳn là vibrato vì trong vibrato tuy có sự " rung rung " của ngón tay trái trên nốt đàn nhưng sự căng thẳng tension của sợi dây đàn không có thay đổi bao nhiêu ; còn " ngân " thì đánh có một lần vào nốt nào đó trong lúc ngón tay trái vẫn tiếp tục ấn mạnh nhẹ liên hồi vào dây đàn để cho sự căng thẳng của dây thay đổi hầu phát ra những tiếng " éo on " của nốt đàn ấy ; thí dụ như đánh nốt Xang nhất là ở vào cuối nhịp hay cuối câu thì không phải để phát ra một tiếng " Xang " rồi thôi, mà phải phát ra một tiếng Xang éo on như " Xàng Xaãang . Có lẽ chữ Pháp hay chữ Anh có nghĩa gần nhất với chữ " Ngân " là chữ " Moduler " Modulate. Kết quả 1. Không thể nào dùng nhạc khí Tây phương nào mà không " ngân " được để diễn tả cổ nhạc miền Nam. Thí dụ không thể dùng dương cầm piano được, vì không thể " ngân " được, dù cho có giữ ngón tay trên phiếm hay có dùng bàn đạp pédale cũng chỉ kéo dài tiếng đàn chớ không phát ra được những tiếng " éo on " của ngân. Còn nếu dùng những nhạc khí có dây của nhạc Tây phương như đàn Madoline hay đàn guitar thì trên cán đàn phải " khoét lỏm " ở chỗ bấm nốt để có thể ấn " mạnh nhẹ, mạnh nhẹ " xuống dây đàn hầu thay đổi sự căng thẳng của nó để mà ngân ". Chỉ có hawailian-guitar là thích hợp để diễn tả cổ nhạc miền Nam nhờ sự có thể nhích tới nhích lui cục sắt nằm trong tay trái để phát ra tiếng " ngân ". 2. Thường thường đàn một bản nhạc Tây phương thì các nốt đàn được đánh lên phải nghe cho thật " clean " nghĩa là không có phụ âm đi kèm ; còn đàn một bản cổ nhạc miền Nam thì các nốt được đánh lên, nghe có phụ âm đi kèm vì " ngân ", thí dụ Công-ôố-ống, Xàng-xaã-ang. II. Khác biệt về quan niệm conception một bản đàn Trong nhạc Tây phương một bản nhạc là một tác phẩm do một nhạc sĩ sáng tác, viết ra để cho mình chơi, người khác chơi, một dàn nhạc chơi và sẽ lưu lại cho hậu thế chơi ; và mỗi khi chơi thì đánh lên không sai một ly những nốt và những ngừng im pause, silence đã viết ra trong bản nhạc. Cho nên một nhạc sĩ Tây phương, lúc đàn thì, về mặt kỹ thuật hành sử exécuter một nhạc phẩm có trước mặt hay thuộc lòng của tác giả ; còn về mặt tình cảm thì " phiên dịch " interpréter tình cảm của tác giả ấy, nghĩa là nghĩ rằng, đoán rằng, lúc sáng tác tác giả ấy đang nghĩ đến gì, thì mình cố gắng diễn tả tư tưởng, cảm giác ấy qua bản nhạc của ông ấy mà mình đang đàn. Còn theo cổ nhạc miền Nam, vì không có lối viết nhạc écriture musicale nên nhạc sĩ không thể có bản nhạc trước mắt, và vì quan niệm rằng một bản nhạc là một cái khung, một cái mẫu theo điệu nào đó để cho nhạc sĩ theo đó mà sáng tác, liền ngay tại chỗ trong lúc đàn một bản nhạc của mình để diễn tả tư tưởng và cảm giác hiện tại của mình cho nên có thể nói rằng một nhạc sĩ cổ nhạc miền Nam là một " Instant Composer ngay lúc đàn, sáng tác một bản nhạc theo điệu nào đó, trong một cái khung hay theo một cái mẫu nào đó thí dụ Điệu Bắc, theo mẫu bản Lưu thủy hay bản Tây thi, hoặc Điệu Nam theo mẫu bản Nam xuân hay bản Nam ai, hoặc Điệu Oán theo mẫu bản Tứ đại hay bản Văn thiên Tường. Kết quả Theo nhạc Tây phương thì một bản nhạc của Mozart, của Beethoven của Chopin hay của một nhạc sĩ trứ danh nào khác sáng tác, thì một nhạc sĩ ở thế kỷ 18, 19, 20, 21, 22, hay sau nữa, ở Pháp, ở Đức, ở Mỹ, ở Tàu hay ở Nhựt, cũng đã, đang và sẽ, đánh ra bấy nhiêu nốt, ngừng lại bấy nhiêu lâu, không sai một ly, chỉ có khác nhau ở lối diễn tả hay " phiên dịch " interpréter cảm giác của tác giả. Còn theo cổ nhạc miền Nam thì một bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của ông Chín Kỳ đàn, nếu được " thu băng " rồi đem ra phân tách kỹ từng nốt đàn và từng lúc im, thì thấy nó sẽ khác với bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của một nhạc sĩ khác đàn cùng một thứ đàn. Và ngay cùng một người đàn, nếu thu băng rồi phân tích kỹ lại từng nốt đàn thì bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của ông Chín Kỳ đàn ngày hôm nay, có khác với bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ mà cũng chính ông Chín Kỳ này đàn ngày hôm trước, hoặc tuần lễ trước, hay ngày hôm sau, hoặc tuần lễ sau, bởi vì theo quan niệm của cổ nhạc miền Nam thì người nhạc sĩ khi đàn là một " Instant Composer " sáng tác ngay tại chỗ một bản đàn theo điệu nào đó, trong khung hay theo mẫu nào đó, để diễn tả tâm hồn hiện tại của mình, tuỳ ý, tuỳ hứng, tuỳ lúc mà tư tưởng và cảm giác của mình thì thay đổi hằng ngày nên bản nhạc đánh ra nghe có khác, mặc dù chung chung biết nó theo điệu gì, mẫu nào. Có lẽ nhạc cổ điển Tàu cũng theo cùng một nguyên tắc cho nên mới có cái tích " Bá Nha, Tử Kỳ ", người này đàn, người kia nghe được, thì " đọc trong ruột " của người ấy mà biết đượcđang nghĩ đến cái gì. III. Khác biệt về các điệu đàn mode Nhạc Tây phương có nhiều " Điệu " mode nhưng thông thường nhứt là hai điệu Mode Majeur và Mode Mineur ; mỗi điệu có nhiều 12 gammes, mỗi gamme được quy định bằng những âm luật chặt chẽ, rõ ràng và khoa học ; cũng như việc chuyển từ điệu này sang điệu kia cũng được quy định bằng những âm luật chặt chẽ, rõ ràng, và khoa học mà không phải sửa đổi sự căng thẳng tension của dây đàn. Còn cổ nhạc miền Nam thì có " ba 3 điệu ", mỗi điệu có một tính chất riêng biệt và một số bài căn bản 1. " Điệu Bắc " thì nghe vui tai, có vẻ liến xáo, đàn nhanh, nhịp lẹ, ngân ít. 2. " Điệu Nam " thì đàn thong thả hơn, ngân vừa, nhịp khi chặt khi thưa, và phải gây ra một cảm tưởng trầm ngâm, bình thản, nghiêm trang ; 3. " Điệu oán " thì đàn thong thả hơn nữa, ngân nhiều, nhịp thưa, và phải gây ra một cảm tưởng buồn rầu, oán hận, thở than. Thường thường khi chuyển từ " Điệu Bắc " qua " Điệu Nam " hay " Điệu Oán " thì nhạc sĩ phải vặn cái trục của cây đàn kìm, cò hay sến hoặc " nới con nhạn " của đàn tranh để sửa sự căng thẳng tension của dây đàn cho tiếng " xuống " lối demi-ton. Hồi xưa khi học đàn cổ nhạc miền Nam thì " Thầy đàn " thông thường bắt đầu dạy " Sáu 6 Bài Bắc " là những bài Bình bán, Phú lục, Tây thi, Cổ bản, Lưu thủy, Hành vân. Mục đích là để cho " quen ngón ", đánh nốt nào bấm cho đúng chỗ, đàn mau, không ngân nhiều, nhịp cho đúng nhịp. còn có một số " Bài điệu Bắc " nữa, rất hay, là những bài Kim tiền, Khổng Minh tọa lầu, Xàng xê, Tây thi quảng ... Học cho thật thuần Sáu Bài Bắc xong thì " Thầy " cho " qua Nam " hay là " qua Oán ". Nếu " qua Nam " thì học " ba 3 Bài Nam " là những bài Đảo ngũ cung, Nam Xuân và Nam Ai thường đàn Nam Xuân rồi qua Nam Ai. Hình như có bài Nam Bình nữa mà ít ai biết và ít nói đến. Nếu " qua Oán " thì họa " Ba 3 Bài Oán " là những bài Tứ đại oán khác với Tứ đại cảnh, Văn thiên tường, và Trường tương tư. Còn có một bài Oán cổ điển rất hay nữa là bài " Bình sa lạc nhạn " nghe tiếng đàn, con chim nhạn đang bay phải rớt té xuống bãi cát. Vọng cổ được sắp theo điệu oán Oán, nhưng không được kể như " classique ". Học đàn cổ nhạc vì không có lối viết nhạc, nên phải nhớ bằng tai nghe lúc ấy lại chưa có máy thu băng thuộc lòng, mà " thầy " dạy không có phương pháp lại mỗi lúc đánh cùng một bản nhạc thì có hơi khác nhau vì lý do nói ở đoạn trên nên phải nhiều cố gắng công phu lắm. Tôi còn nhớ lúc nhỏ hay chế diễu việc học đàn bằng câu hát " Liêu Tồn Liêu Xáng U, cú trên đầu ba bữa còn u " vì ở Việt Nam trẻ con học cái gì cũng bị đòn. IV. Khác biệt về lối kiến trúc các cơ cấu structure của bản nhạc Cũng như một bản nhạc Tây phương, một bản cổ nhạc miền Nam cũng được chia ra làm nhiều đoạn hay nhiều lớp Tứ đại có lớp Xự, và lớp Xang mỗi lớp có một số câu, mỗi câu có một số nhịp mesure. Và từ đây là bắt đầu có một sự khác biệt căn bản giữa hai âm nhạc Trong một bản nhạc Tây phương mỗi nhịp mesure được chia ra làm nhiều " Thì " temps như 2/4, 4/4 hay C, hoặc 3/8, 6/8, 9/8 ... để rồi, tuỳ theo cái " thì " đó mà mỗi nhịp bắt buộc phải có và chỉ có bao nhiêu nốt loại nào tròn, trắng, đen, một nóc, hai nóc ... cùng với bao nhiêu ngừng im pause, silence. Còn trong cổ nhạc miền Nam thì có nhịp mesure chớ không có " thì " temps, cho nên nhạc sĩ đã là " Instant Composer " thì tuỳ ý, tuỳ hứng, tùy " yên sĩ phi lý thuần " inspiration mà đánh bao nhiêu nốt trong một nhịp, nghỉ bao nhiêu lần bao nhiêu lâu cũng được, miễn là, " canh nhịp " cho đúng, để mà ở những chỗ có nhịp chính của bản đàn thì đánh cho đúng cái nốt bắt buộc ở đó, gọi là " xuống nhịp " cho đúng ; bởi lẽ mỗi bản nhạc là một cái khung cái mẫu theo một số điệu nào đó thì luôn luôn có một số nhịp chính, ở đó bắt buộc phải đánh nốt nào đó. Thí dụ trong bản nhạc vọng cổ, ở câu 1, thì nhịp đầu là " Hò ", nhịp thứ tư là " Hò ", nhịp thứ 8 là " Xang ", nhịp thứ 12 là " Cống ", thì nhạc sĩ chỉ cần canh nhịp cho đúng để đến nhịp 1 thì đánh Hò, gọi là " xuống Hò ", nhịp 4 thì " xuống Hò ", nhịp 8 thì " xuống Xang ", và nhịp 12 thì " xuống Cống ", còn ở những chỗ khác thì tha hồ, tuỳ ý, tuỳ hứng miễn là canh nhịp sao cho đúng để " xuống nhịp " cho đúng. V. Khác biệt trong lối " hành sử " exécuter bản nhạc Một nhạc sĩ trình diễn nhạc Tây phương thì bắt đầu là vào ngay bản nhạc có trước mắt hay thuộc lòng mà mình phải chơi. Còn một nhạc sĩ trình diễn cổ nhạc miền Nam thì bắt đầu bằng một hồi " Rao ". Rao nghĩa là đàn theo một điệu nào đó điệu Bắc, điệu Nam, hay điệu Oán mà không phải theo khung mẫu của bản nào hết, nên hoàn toàn tuỳ ý, tuỳ hứng. Tức nhiên là lối " Rao Bắc " đàn nhanh, vui nhộn, liến xắc có lối " Rao Nam " đàn ung dung, trầm ngâm, bình thản và lối " Rao Oán " đàn chậm, ngân nhiều, cho ra những tiếng buồn rầu, oán hận. " Rao lên " thì người nghe nhạc biết rằng nhạc sĩ sẽ đàn điệu gì Bắc, Nam hay Oán. Một tác dụng khác của " Rao ", khi có nhiều người đàn, là để " so dây ". Đàn tây phương lấy nốt La A làm căn bản, có định nghĩa khoa học rõ ràng là tiếng phát ra của một sợi dây căng thẳng được rung với một tần số fréquence 438 rung động trong một giây đồng hồ 438 vibrations par seconde hồi trước là 435 ; có dụng cụ diapason để so dây và lên giây các thứ đàn cho đúng. Còn đàn cổ nhạc miền Nam thì lấy nốt Hò làm căn bản, nhưng không có định nghĩa khoa học rõ rệt nốt Hò là gì, có bao nhiêu rung động trong một giây đồng hồ, và không có dụng cụ để đo, và so dây các thứ đàn, mà chỉ lấy tai nghe. Mà tai người này với người kia khác nhau nên lúc rao là thời gian để các nhạc sĩ sửa dây đàn của mình cho " ăn " với nhau, hoặc " ăn " với giọng của ca sĩ, nếu có ca. Tác dụng thứ ba của Rao là để biểu diễn. Vì đàn một điệu mà không bị ràng buộc bởi cái khung mẫu của bản nào hết, thì nhạc sĩ có thể tha hồ cho " ra những ngón đàn " đặc biệt của mình để tỏ ra là mình có khả năng đàn mau " sầm sập như trời đổ mưa ", " đàn khoan thai như gió thoảng ngoài ", đàn riếu ron " như tiếng hạc bay qua " hoặc đàn lâm ly " như nước suối mới sa nửa vời ". Người sành nhạc, chỉ nghe rao thôi, cũng có thể đánh giá và sắp hạng nhạc sĩ ưu hay bình, thứ được. Cho nên nhạc sĩ lúc rao thích " trỗ tài " và " biểu diễn ". Rao xong thì vào bài, tức là bắt đầu bản nhạc. Thường thường để đánh dấu bắt đầu vào bản nhạc, nhất là khi có nhiều người cùng hoà tấu, thì người nhạc sĩ " cầm canh " hay là " giữ nhịp ", gõ vào nhịp cụ nghe một tiếng " cóc ", tức là bắt đầu, thì mọi người đàn. Trong suốt thời gian đàn, thỉnh thoảng nghe nhịp " cóc "? " cóc "? " cóc ", mau hay khoan tuỳ theo điệu điệu Bắc thì mau, điệu Nam thì khoan thai hơn, điệu Oán thì chậm hơn nữa. Không phải nhịp nào cũng gõ, mà thường thường là nhịp để chấm câu như nhịp thứ 16 là để chấm câu trong bản vọng cổ hoặc để đánh dấu một vài nhịp chính trong câu như nhịp thứ 12 trong câu vọng cổ. Có khi, nhất là trong các bản đàn điệu Nam hay điệu Oán xưa ; thì có lối " nhịp song loan " như để xuống dòng trong một bản văn viết ; thì người ta nghe như sau tiếng đang đàn, nghe nhịp một cái " cóc " thì im, đếm thầm một, hai, ba, nghe nhịp một cái " cóc " nữa, thì đàn lại, hoặc như sau tiếng đang đàn, thì im và nghe gõ nhịp " cóc " - " cóc ", " cóc " - " cóc " thì đàn lại. IV. Vọng cổ Đàn và ca vọng cổ là điệu phổ thông nhất và được thưởng thức nhất ở miền Nam sau này cho đến nổi mà đối với một số người Bắc mới vào Nam và có một số người Nam trong thế hệ trẻ, cổ nhạc miền Nam là vọng cổ và chỉ có vọng cổ. Kỳ thực thì cổ nhạc miền Nam có nhiều bài cùng điệu vọng cổ điệu oán mà hay hơn vọng cổ rất nhiều như các bài Tứ đại, Văn thiên Tường, hay là Trường tương tư, nhưng các bài ấy vì khó đàn khó ca nên sau này bị lãng quên mà chỉ còn có vọng cổ được tồn tại phổ thông vì dễ đàn và dễ ca. 1. Lịch sử Một số người Nam cho rằng vọng cổ phát xuất từ người Chàm ở miền Nam Trung phần nhớ tiếc thuở xa xưa. Nhưng thuyết ấy không có chứng minh. Dù sao, đến cuối thập niên 1920, hồi thời " máy hát quay tay hiệu con chó có cái loa " La voix de son maitre, thời dĩa hát hiệu " con gà " của hãng " Pathé ", hồi đời " Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho ", đời mà khi diễn xong một tuồng hát, thì toàn ban ra trước sân khấu hát bài " Ma-Đờ-Long " Madelon để từ giã, thì trong Nam đã có bản nhạc " vọng cổ hoài lang ", 20 câu, mỗi câu có 4 nhịp ; đến đầu thập niên 30, lối năm 1935, 36, thì có nhóm nhạc sĩ ở Bạc Liêu đàn bản vọng cổ này mà kéo dài ra mỗi câu có lẽ 16 nhịp, nên lúc ấy trong Nam gọi là " vọng cổ Bạc Liêu " hay là vọng cổ nhịp 16 ". Kể từ đó và suốt hết thập niên 40 là " thời kỳ vàng son " của vọng cổ với trọn 20 câu, mỗi câu có 16 nhịp, với các nghệ sĩ lừng danh trong cả Nam kỳ như các nhạc sĩ Sáu Tửng đàn kìm, Chín Kỳ đàn tranh, Hai Phát đàn cò, các nam ca sĩ Năm Châu và Bảy Nhiêu, các nữ ca sĩ Cô Hai Đá, cô Ba Bến Tre, cô Tư Sạng, và nhất là cô Năm Phỉ trong tuồng cải lương " Xử Án Bàng Quý Phi ". Các nhạc sĩ và ca sĩ trên còn đàn và ca được những bài Oán khác như Tứ Đại, Văn Thiên Tường, và trường Tương Tư. Đến những thập niên 1950, 1960, tân nhạc Việt Nam theo lối nhạc Tây phương tràn ngập vào miền Nam và cổ nhạc miền Nam, nhất là những bản nhạc khó đàn và khó ca, bị lu mờ dần rồi bị lãng quên hẳn, chỉ còn có vọng cổ, rút ngắn lại còn có sáu 6 câu đầu, với nam ca sĩ " ăn khách " nhất là ông Út Trà Ôn, và nữ ca sĩ " ăn khách " nhất là cô Thanh Nga. 2. Nghe đàn và ca sáu 6 câu vọng cổ. Khởi đầu cuộc trình diễn thì các nhạc sĩ " Rao " rao điệu Oán xem ở đoạn trước. Rao một lúc thì ca sĩ bắt đầu " nói lối " trong lúc nhạc sĩ vẫn rao ; khi nói lối gần xong thì nhạc sĩ ngừng rao, chờ cho ca sĩ xuống giọng để vô nhịp Hò đầu của câu 1 thì nhạc sĩ " bắt " nốt Hò đó để vào bản nhạc và tiếp tục đàn luôn. Thường thường nếu ca sĩ xuống giọng để " vào nhịp Hò " ấy mà nghe êm tai, mùi mẫn lại ăn khớp với tiếng đàn " bắt " nốt Hò đó thì khán giả vỗ tay rầm rầm. Ca đến hết câu 1 thì " xuống nhịp Cống ", cho nên bài ca vọng cổ nào chữ cuối cùng của câu 1 cũng là một chữ có dấu sắc, hoặc có khi dấu hỏi hay dấu ngã, mới " ăn " với nốt " Côôống Cuối câu 2 thì " xuống nhịp Xang ", cho nên bài ca vọng cổ nào chữ cuối cùng của câu 2 cũng là một chữ không dấu mới " ăn " với nốt Xàãang. miễn cưỡng lắm mới dùng chữ có dấu huyền thì phải đọc lờ đờ như là không dấu. Cuối câu 3 và cuối câu 4 đều " xuống nhịp Hò " thì bài ca thường thường cuối câu 3 và cuối câu 4 là một chữ có dấu huyền mới " ăn " với nốt Hò miễn cưỡng lắm mới dùng một chữ không dấu. Cuối câu 5 thì " xuống nhịp Xề " nên trong bài ca chữ cuối của câu 5 nhất định phải là một chữ có dấu huyền, mà đọc phải gằng giọng và kéo dài để cho " ăn " với nốt " Xềêê ". Cuối câu 6 thì xuống nhịp Hò như 3 và 4 mà phải đọc nhẹ để chấm dứt bài ca cho êm tai. Hồi xưa nếu còn tiếp tục ca nữa thì đặc biệt đến câu 9, xuống nhịp " Xự ", thì trong bài ca chữ cuối cùng của câu 9 phải là một chữ có dấu nặng mới " ăn " với nốt " Xưựư ". Trong suốt thời gian đàn và ca thì có một nhạc sĩ vừa đàn vừa " cầm canh " nghĩa là giữ nhịp cụ để " chấm nhịp " thì phải gõ nhịp nghe một tiếng " cóc " ở nhịp thứ 12 và nhịp thứ 16 của mỗi câu trừ câu 1 thường thường chỉ có 12 nhịp, vì cho rằng " Rao " đã mất hết 4 nhịp, nên phải gõ nhịp ở nhịp 8 và 12. Đến câu 6, ở nhịp thứ 12 thì phải gõ vào nhịp cụ hai lần nghe cóc cóc để báo hiệu rằng còn 4 nhịp nữa hết câu thì sẽ stop, ngưng đàn và ca. Thì nhạc sĩ bắt đầu đàn lơi lơi và chậm lại dần theo nhạc Tây phương là Rall hay Rallentando và ca cũng hơi chậm chậm lại cho đến cuối câu nghe nhịp một cái " cóc " nữa là ngưng đàn và ca. Hồi xưa khi còn đàn và ca vọng cổ đủ cả 20 câu, thì đến đây không nghe nhịp hai cái cóc cóc thì nhạc sĩ và ca sĩ không đàn và ca chậm lại và hết câu 6 thì đi luôn qua câu 7. Sau này còn có cái lối không đàn và ca luôn hết sáu câu, mà đến hết câu 3 thì - Hoặc ngừng rồi rao, nói lối, rồi xuống giọng để trở vô nhịp Hò đầu của câu 4, rồi đàn và ca luôn đến hết câu 6 ; - Hoặc ngừng rồi rao, ca đệm vài câu của bản " Xuân Tình " hay bản " Chuồn Chuồn " rồi nói lối và xuống giọng để vô nhịp Hò đầu của câu 4 rồi đàn và ca luôn đến hết câu 6. Trên đây tôi đã cố gắng trình bày vài nguyên tắc căn bản của cổ nhạc miền Nam, khác biệt với nhạc Tây phương để hiểu thêm phần nào và thưởng thức hơn nhạc cổ điển của chúng ta. Và tôi nghĩ rằng thế hệ già này của Việt kiều di cư, tuy không còn được thưởng thức tiếng đàn và lời ca của những bài cổ nhạc miền Nam độc đáo nữa như các bản Tây thi, Xàng xê, Nam xuân, Nam ai, hoặc Tứ đại, Văn thiên Tường, hay Trường Tương Tư, nhưng vẫn còn thấy xúc động khi được nghe đàn và ca sáu câu vọng cổ ; chứ đến thế hệ tương lai sau này của Việt kiều di cư, thì chắc chắn không biết tới tên của những bản cổ nhạc ấy nữa, và không biết sẽ còn xúc động khi nghe đàn và ca sáu câu vọng cổ hay không, hay là sẽ dửng dừng dưng như nghe nhạc A- rab hay nhạc Ấn độ, một sự dửng dừng dưng tò mò của người ngoại quốc ? Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây. Chào các bạn, Phần giới thiệu tiếp theo của mình với các bạn trong Dân ca Dân nhạc Việt Nam hôm nay sẽ là “Hệ Thống Tổng Quát Bài Bản Cổ Nhạc Miền Nam”, một số bài bản trong hệ thống này đã trở thành những bài thông dụng trong bộ môn Cải Lương qua nhiều thế hệ. Cổ Nhạc Miền Nam bao gồm nhiều bài bản lớn nhỏ. Và đã được xếp loại chia các bài ra 10 nhóm thứ tự như sau – Nhứt Lý các điệu Lý – Nhì Ngâm ngâm Kiều, ngâm thơ, ngâm sa mạc… – Tam Nam ba bài Nam lớn – Tứ Oán các bài Oán – Ngũ Điểm sáu bài Bắc lớn – Lục Xuất sáu bài ngắn – Thất Chính bảy bài nhạc lớn lễ, cung đình – Bát Ngự tám bài Ngự – Cửu Nhĩ 2 bài do nhóm tài tử miền Đông biên soạn – Thập Thủ thập thủ liên hoàn, 10 bài ngắn Năm 1997 trong một bài viết của Nhạc sĩ Kiều Tấn có hệ thống các bài bản này được chia làm hai hệ thống bài Bắc bài vui và bài Nam bài buồn, với thứ tự bên trên được tô màu đỏ như sau A. Hệ thống bản Bắc Sáu Bắc Ngũ điếm 1. Lưu Thủy 2. Phú Lục 3. Bình Bán 4. Cổ Bản 5. Xuân Tình 6. Tây Thi Bảy bài Thất chính 1. Xàng Xê 2. Ngũ ối Thượng 3. Ngũ ối Hạ 4. Long ăng 5. Long Ngâm 6. Vạn Giá 7. Tiểu Khúc Tám ngự Bát ngự 1. ường Thái Tôn 2. Vọng Phu 3. Chiêu Quân 4. Ái Tử Kê miền ông 5. Bát Man Tấn Cống 6. Tương Tư 7. Duyên Kỳ Ngộ 8. Quả Phụ Hàm Oan Hai nhĩ Cữu Nhĩ 1. Hội Nguyên Tiêu 2. Bát Bản Bát Bản Chấn Mười khách Thập thủ 1. Phẩm Tuyết 2. Nguyên Tiêu 3. Hồ Quảng 4. Liên Hườn 5. Bình Bán 6. Tây Mai 7. Kim Tiền 8. Xuân Phong 9. Long Hổ 10. Tẩu Mã Tứ bửu 1. Minh Hoàng Thưởng Nguyệt 2. Ngự Giá ăng Lâu 3. Phò Mã Giao Duyên 4. Ái Tử Kê miền Tây Ngũ châu 1. Kim Tiền Bảng 2. Ngự Giá 3. Hồ Lan 4. Vạn Liên 5. Song Phi Hồ iệp Bản rời 1. Ngũ ối Ai 2. Chiết Tứ Vĩ 3. Hội Huê ăng 4. Lục Luật Tiêu Hà 5. Bắc Ngự, Bản sáng tác mới 1. Tứ Bửu Liêu Thành 2. Ngũ Châu Minh Phổ 3. Ngũ Cung Luân Hoán 4. Ngũ Khúc Long Phi, B. Hệ thống bản Nam Ba Nam Tam Nam 1. Nam Xuân 2. Nam Ai 3. Nam Đảo ảo Ngũ Cung Bốn oán Tứ oán 1. Tứ ại Oán 2. Phụng Hoàng 3. Giang Nam Giang Nam Cửu Khúc 4. Phụng Cầu Bản rời 1. Văn Thiên Tường 2. Trường Tương Tư 3. Tứ ại Vắn 4. Khổng Tử Khốc Nhan Hồi 5. Bình Sa Lạc Nhạn 6. Xuân Nữ 7. Ngươn Tiêu Hội Oán 8. Võ Văn Hội Oán 9. Xuân Tình Bát Oán 10. Quả Phụ Hàm Oan, Bản sáng tác mới 1. Dạ Cổ Hoài lang 2. Vọng Cổ 3. Võ Tắc Biệt 4. Liêu Giang 5. Ngũ Quan 6. Thanh Dạ ề Quyên 7. Chinh Phụ Ly Tình Chinh Phụ Nam 8. Nam Âm Ngũ Khúc 9. Khúc Hận Nam Quan, Nguồn NS Giang Tuyền Có lẽ đây là 77 bài bản chính thức được công nhận hiện nay. Tuy nhiên có thể còn một số ít bài bản khác thuộc loại bản rời hoặc sáng tác mới là số bài bản ít được phổ biến, hoặc bị thất truyền. Có thông tin trên về đờn ca tài tử, cho rằng “Từ năm 1945, ông Nguyễn Văn Thịnh thường được gọi là ông Giáo Thịnh – một nhạc sư có uy tín tại Sài Gòn — đã đúc kết và phổ biến một hệ thống mới gọi là 72 bài bản cổ nhạc miền Nam được gọi là thất thập nhị huyền công.” Có lẽ hệ thống 77 bài ở đây cũng từ hệ thống 72 bài của Giáo Thịnh mà ra. Mời các bạn thưởng thức một số bài bản tượng trưng do các nghệ nhân cổ nhạc trình bày sau đây. Túy Phượng oOo Điệu Lưu Thủy Trường – Nhạc sĩ Văn Hải độc tấu đệ tử số 1 của Thầy Văn Vĩ Điệu Bình Bán – Câu Lạc Bộ Đờn Ca Tài Tử Long Xuyên hòa tấu Điệu Văn Thiên Tường qua điệu Xế Xảng – Thầy Văn Vĩ hòa tấu Điệu Nam Xuân, Nam Ai, và Nam Đảo Đảo Ngũ Cung – Nghệ sĩ Hương Thanh hát Điệu Tứ Đại Oán – Nghệ sĩ Thanh Ngân hát Điệu Phụng Hoàng – Nghệ Sĩ Kim Tử Long, Nghệ sĩ Ngọc Huyền, Nghệ sĩ Thoại Mỹ hát trích đoạn tuồng cải lương xã hội Nữa Đời Hương Phấn Thể loại Nhạc Miền NamLượt nghe 489 Thời lượng 4000 4,7 ★ 3 người đánh giá - Tân Cổ Giao Miền Nam Duyên Xưa Trước Năm 1975 Nghe Cực Mùi Lắm Phần 1. Tuyển Tập Các Nhạc Miền Nam Chọn Lọc Hay Nhất Như Nhạc Phật Giáo, Thời Chiến, Thánh Ca, Thiếu Nhi, Nhạc Xuân, Giáng Sinh, Tải Nhạc Miền Nam MP3 Chọn Lọc Hay 2020.

co nhac mien nam